Bạn Có Câu Hỏi Gì?
Ví dụ: Hôn Nhân, Tình Dục, Tiền Bạc, Khủng Long, Thuốc Lá, Xăm Hình, v,v ...

*Xin đánh tiếng việt có dấu hoặc sử dụng tiếng anh.
*Hiện tại việc dịch thuận tài liệu vẫn đang cần rất nhiều đóng góp. Nếu bạn có thể đóng góp, hãy liên hệ facebook qua trang thông tin.
Bộ Gõ:   Off   Telex   VNI   VIQR  

Cấu trúc của lịch Do Thái là gì?

Lịch của người Do Thái dựa trên tháng âm lịch, dài hơn 29 ngày rưỡi một chút. Do đó, các tháng trong lịch Do Thái dài 29 hoặc 30 ngày. Mười hai tháng âm lịch thường có 354 ngày, thiếu 11 ngày so với một năm dương lịch. Để các lễ hội diễn ra đúng mùa tính theo năm dương lịch, cứ vài năm người ta lại cộng thêm một tháng.
Lịch Do Thái được tính từ thời điểm được cho là Sự sáng tạo của trái đất: 3.760 năm và ba tháng trước kỷ nguyên Tin Lành. Vì vậy, để tìm năm hiện tại trong lịch Do Thái, người ta phải thêm 3.759 vào ngày trong lịch Gregorian. Cái mà chúng ta gọi là năm 2015, trong lịch Do Thái, là năm 5775. Tuy nhiên, hệ thống này sẽ không hoạt động chính xác theo tháng, vì năm Do Thái (theo lịch dân sự) bắt đầu vào mùa thu thay vì giữa mùa đông. Một tháng tiếng Do Thái bắt đầu vào giữa tháng theo lịch của chúng ta ngày nay. Các loại cây trồng được trồng vào thời điểm mà chúng ta gọi là tháng 11 và tháng 12 và được thu hoạch vào tháng 3 và tháng 4.
Lịch Do Thái
Tháng
1 Nisan (Abib)
2 lyyar (Ziv)
3 Sivan
4 Tammuz
5 tháng
6 Elul
7 Tishri (Etanim)
8 Marcheshvan (Bùi)
9 Kislev
10 Tê-bết
11 Shebat
12 Adar
Lịch Gregorian   
Tháng Ba, tháng tư
tháng 4-tháng 5
tháng 5-6
Tháng Sáu Tháng Bảy
tháng 7-8
Tháng Tám tháng Chín
Tháng Chín tháng mười
Tháng Mười Tháng Mười Một
Tháng Mười Một tháng Mười Hai
Tháng Mười Hai tháng một
Tháng một tháng hai
Tháng hai Tháng Ba
Tài liệu tham khảo Kinh thánh
Xuất Ai Cập 13:4
Xảy ra năm bốn trăm tám mươi, sau khi dân Y-sơ-ra-ên ra khỏi xứ Ê-díp-tô, là năm thứ tư của Sa-lô-môn trị vì trên Y-sơ-ra-ên, nhằm tháng Xíp, nghĩa là tháng thứ hai, thì người cất đền của Đức Giê-hô-va.
I Các Vua 6:1
1 Các Vua 6:1, 37
Bấy giờ, nhằm tháng ba, là tháng Si-van, ngày hai mươi ba; những thầy thơ ký được gọi vào, họ y theo mọi điều Mạc-đô-chê dạy biểu mà viết cho dân Giu-đa, các quan trấn thủ, các quan cai quản và những đầu trưởng của các tỉnh, từ Aán-độ cho đến Ê-thi-ô-bi, tức một trăm hai mươi bảy tỉnh, viết cho tỉnh nào dùng chữ nấy, cho dân tộc nào theo thổ âm nấy, và cho dân Giu-đa, thì theo chữ và tiếng của họ.
Ê-xơ-tê 8:9
Ê-xơ-tê 8:9
Vậy, ngày hai mươi lăm tháng Ê-lun, vách thành sửa xong, hết năm mươi hai ngày.
Nê-hê-mi 6:15
Nê-hê-mi 6:15
1 Các Vua 8:2
1 Các Vua 6:38
Nê-hê-mi 1:1
Ê-xơ-tê 2:16
Xa-cha-ri 1:7
Ê-xơ-tê 2:7
Lịch Do Thái, dựa trên mặt trăng, luôn bắt đầu với mặt trăng mới. Để bù cho năm ngắn hơn (so với lịch dựa trên mặt trời), một tháng bổ sung được định kỳ thêm vào giữa các tháng A-đa và tháng Ni-san. Tháng đó, đôi khi được gọi là Veader (“Adar thứ hai”), được thêm bảy lần trong chu kỳ 19 năm (tại thời điểm đó tháng Adar nhận thêm nửa ngày).
Tên của các tháng trong lịch Do Thái bắt nguồn từ thời kỳ sau khi Babylonia trở về Israel. Trước khi bị lưu đày ở Ba-by-lôn, ít nhất bốn tháng có các tên khác: A-bi-út (Xuất Ê-díp-tô Ký 13:4), Ziv (1 Các Vua 6:1, 37), Ê-tha-nim (1 Các Vua 8:2), và Bu-lơ (1 Các Vua 6:38) . Sau Thời kỳ lưu đày, những tháng này lần lượt được đổi tên thành Nisan, lyyar, Tishri và Heshvan (ban đầu là Marcheshvan). Những cái tên trước thời lưu đày mang hàm ý nông nghiệp. Ví dụ, Abib (“bắp lúa”) biểu thị tháng mà ngũ cốc chín; Ziv (“rạng rỡ”) là tháng hoa sa mạc nở rộ. Định hướng nông nghiệp thể hiện rõ ràng trong lịch Do Thái lâu đời nhất, được tìm thấy tại Gezer (phía đông nam Tel Aviv) vào năm 1908 và có niên đại từ thế kỷ thứ 10 trước Công nguyên. Lịch chia năm theo các hoạt động nông nghiệp như gieo trồng,
Tuy nhiên, về cơ bản, các tháng trong lịch Do Thái có ý nghĩa tôn giáo đối với người Do Thái và giúp họ kỷ niệm các sự kiện quan trọng trong lịch sử của mình. Mỗi đầu tháng được coi là thánh. Đối với Israel cổ đại, mặt trăng trở thành biểu tượng của chính quốc gia đó; mặt trời cuối cùng trở thành biểu tượng của Đấng Mê-si (Ma-la-chi 4:2). Vì mặt trăng không tự phát ra ánh sáng nên biểu tượng đặc biệt thích hợp: Y-sơ-ra-ên phải phản chiếu ánh sáng của Đấng Mê-si cho thế giới.
Lịch Do Thái vẫn không thay đổi trong khoảng thời gian giữa Cựu Ước và Tân Ước (khoảng 400 năm), bất chấp nỗ lực của các nhà cai trị Hy Lạp nhằm giới thiệu một hệ thống tháng âm lịch đã được sửa đổi, có lẽ có nguồn gốc từ Macedonia. Theo lịch đó, năm ngày được thêm vào tháng cuối cùng của năm, với mỗi tháng trong số 12 tháng có 30 ngày. Thậm chí sau đó, nó chỉ xấp xỉ năm mặt trời.
Thông thường, người Hê-bơ-rơ cổ đại không ghi ngày bằng cách trích dẫn tháng và ngày của một sự kiện. Thay vào đó, ngày được tính bằng cách tham khảo một số sự kiện quan trọng chẳng hạn như năm lên ngôi của vị vua trị vì (2 Các Vua 15:17) hoặc ngày sinh của một tộc trưởng (Sáng Thế Ký 7:11). Trong thời Tân Ước, người Do Thái tiếp tục phương pháp xác định niên đại các sự kiện trong Cựu Ước bằng cách đồng bộ hóa chúng với các sự kiện trong lịch tôn giáo của họ hoặc trong phạm vi thế tục của thế giới La Mã. Các tác giả Tân Ước cũng làm như vậy (Lu-ca 1:5; Giăng 12:1; Công vụ 18:12). Chỉ khi những cải cách về lịch của Julius Caesar đã ăn sâu vào văn hóa thì người ta mới thay đổi từ phương pháp lâu đời đó sang một hệ thống tiêu chuẩn hóa hơn.
* Kinh Thánh Tham Khảo:
I Các Vua 6:1 - Xảy ra năm bốn trăm tám mươi, sau khi dân Y-sơ-ra-ên ra khỏi xứ Ê-díp-tô, là năm thứ tư của Sa-lô-môn trị vì trên Y-sơ-ra-ên, nhằm tháng Xíp, nghĩa là tháng thứ hai, thì người cất đền của Đức Giê-hô-va.
Ê-xơ-tê 8:9 - Bấy giờ, nhằm tháng ba, là tháng Si-van, ngày hai mươi ba; những thầy thơ ký được gọi vào, họ y theo mọi điều Mạc-đô-chê dạy biểu mà viết cho dân Giu-đa, các quan trấn thủ, các quan cai quản và những đầu trưởng của các tỉnh, từ Aán-độ cho đến Ê-thi-ô-bi, tức một trăm hai mươi bảy tỉnh, viết cho tỉnh nào dùng chữ nấy, cho dân tộc nào theo thổ âm nấy, và cho dân Giu-đa, thì theo chữ và tiếng của họ.
Nê-hê-mi 6:15 - Vậy, ngày hai mươi lăm tháng Ê-lun, vách thành sửa xong, hết năm mươi hai ngày.
I Các Vua 8:2 - Trong lúc lễ, nhằm tháng Ê-tha-ninh, là tháng bảy, hết thảy người nam của Y-sơ-ra-ên đều nhóm lại cùng vua Sa-lô-môn.
I Các Vua 6:38 - năm thứ mười một, nhằm tháng Bu-lơ, nghĩa là tháng tám, đền thờ hoàn thành trong mọi phần nó, theo kiểu đã ra. Sa-lô-môn cất đền hết bảy năm.
Nê-hê-mi 1:1 - Lời của Nê-hê-mi, con trai Ha-ca-lia. Năm thứ hai mươi, nhằm tháng Kít-lơ, xảy khi tôi đang ở tại kinh đô Su-sơ,
Ê-xơ-tê 2:16 - Aáy vậy, E-xơ-tê được đưa đến cùng vua A-suê-ru trong cung vua, nhằm tháng mười (là tháng Tê-bết) năm thứ bảy đời người trị vì.
Xa-cha-ri 1:7 - Ngày hai mươi bốn tháng mười một, là tháng Sê-bát, trong năm thứ hai Đa-ri-út, có lời của Đức Giê-hô-va phán cho đấng tiên tri Xa-cha-ri, con trai Ba-ra-chi, cháu Y-đô, như vầy:
Ê-xơ-tê 2:7 - Người bảo dưỡng Ha-đa-xa (tức Ê-xơ-tê) con gái của cậu mình, vì nàng không có cha mẹ. Người thiếu nữ ấy là tốt tươi hình dạng, đẹp đẽ dung nhan. Vậy, khi cha mẹ nàng đã qua đời rồi, Mạc-đô-chê nhận nàng làm con gái mình.
I Các Vua 6:38 - năm thứ mười một, nhằm tháng Bu-lơ, nghĩa là tháng tám, đền thờ hoàn thành trong mọi phần nó, theo kiểu đã ra. Sa-lô-môn cất đền hết bảy năm.

* Bản Dịch theo GotQuestions
* Nếu bạn cảm thấy bản dịch này chưa đúng hoặc chưa phù hợp, xin hãy liên hệ và đóng góp bản dịch mới.